Thiết lập tịnh độ: Kinh A Di Đà thiền giải - Thích Nhất Hạnh

Thương hiệu: Nxb Hồng Đức | Mã SP:
109.650₫ 129.000₫ Còn hàng

Tác giả: Thích Nhất Hạnh

Hình thức: bìa mềm, 216 trang

Thể loại: Phật giáo

Nhà xuất bản: Hà Nội

Gọi 0985.369.023 để được tư vấn miễn phí

Thiết lập tịnh độ: Kinh A Di Đà thiền giải - Thích Nhất Hạnh

Kinh A Di Đà là một kinh Đại thừa, thuộc về nền Phật giáo Phát triển. Đạo Bụt giống như một cây đại thọ và cũng là một thực tại sinh động. Bất kỳ một cái gì đang sống cũng phải lớn lên. Một cây đang sống thì ngày nào cũng cho thêm cành, lá; cành dài ra thêm, lá mọc nhiều thêm. Có cành mới, lá mới, hoa mới và trái mới thì cây đạo Bụt mới là một thực tại linh động, một cái gì đang sống. Vì vậy, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, đạo Bụt phải phát triển thêm. Đạo Bụt Đại thừa là những hoa trái phát triển từ cội nguồn Phật giáo Nguyên thuỷ.

Mình không muốn đạo Bụt là một cái xác khô nằm trong viện bảo tàng mà là một thực tại sống động, mỗi ngày đều có thêm sức sống. Và vì vậy, mình phải chấp nhận rằng cây Phật giáo mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm phải có thêm cành mới, lá mới. Đạo Bụt phát triển không ngừng nhưng vẫn là đạo Bụt như thường.

Kinh A Di Đà hiện giờ đang được đọc tụng ở khắp các chùa, dù là chùa Thiền tông, vì kinh A Di Đà trình bày một giáo lý rất dễ thực tập. Những người không có căn trí lớn, những người không đủ Niệm, Định, Tuệ cũng có thể thực tập được kinh A Di Đà. Nói như vậy không có nghĩa là những người có căn trí lớn thì không thực tập được. Tại vì kinh A Di Đà có thể được hiểu rất sâu, cũng có thể được hiểu rất cạn. Người hiểu sâu cũng có thể thực tập, người hiểu cạn cũng có thể thực tập. Vì vậy chúng ta phải học kinh A Di Đà bằng một nhận thức hết sức cởi mở, bởi vì kinh A Di Đà là một giáo pháp có tính cách phổ biến. Người căn trí lớn thực tập cũng được mà người căn trí nhỏ hẹp thực tập cũng được.

Khi người có căn trí lớn niệm “Nam mô A Di Đà Phật” hay là “Nam mô Bụt A Di Đà” thì sở kiến và sở đắc rất lớn lao. Khi người có căn trí nhỏ hẹp niệm “Nam mô A Di Đà Phật” thì tuy người ấy cũng có sở kiến và sở đắc nhưng có thể sở kiến và sở đắc ấy nhỏ bé hơn. Niệm Bụt, ta có thể đạt tới Niệm, Định và Tuệ rất cao. Ta cũng có thể niệm Bụt mặc dù năng lượng Niệm, Định và Tuệ chưa hùng hậu. Hiệu quả của câu niệm Bụt lớn hay nhỏ là do cách hành trì của chúng ta. Hiệu quả lớn hay nhỏ là do Niệm và Định vững chãi nhiều hay ít.

Mục lục:

Bụt tại mười phương

Vài chi tiết về kinh A Di Đà

Tịnh nhiễm do tâm

Khổ vui tương tức

Diệu dụng pháp thân

Tích môn và bản môn

Đạo tràng lý tưởng

Gió chim thuyết pháp

Tạo lập Tịnh Độ

Nắm lấy danh hiệu

Đã về đã tới

Hoa sen chín phẩm

Thiền tịnh không hai

Gạn đục khơi trong

Ba nguồn năng lượng

Kinh A Di Đà

Trích đoạn sách:

Vài chi tiết về kinh A Di Đà

Trước khi đi vào kinh A Di Đà, chúng ta phải biết một vài chi tiết.

Thứ nhất, trong đạo Bụt Nguyên thuỷ, phương pháp Niệm Bụt đã là một phương pháp rất quan trọng. Niệm Bụt, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí và niệm Thiên đều là những phương pháp thực tập có ngay trong thời Bụt tại thế. Phương pháp này được gọi là Tùy niệm và ngay trong thời Bụt tại thế đã có nhiều Phật tử thực tập niệm Bụt. Đức Thế Tôn có vững chãi, có thảnh thơi, có từ bi, có hỷ xả và mỗi khi nhớ tới Đức Thế Tôn thì tự nhiên mình thấy trong người khỏe, có được tính vững chãi, tính thảnh thơi của Đức Thế Tôn. Cho nên thời bấy giờ có nhiều người niệm Bụt. Người ta thường chắp tay và đọc: “Namo tassa bhagavato arahato sammà sambuddhassa” (Kính lạy Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, bậc Chánh Biến Tri). Bhagavato: Thế Tôn, Arahat: Ứng Cúng, và Chánh Biến Tri là Sammà Sambuddhassa. Và sau đó, người ta tụng mười danh hiệu của Đức Thế Tôn: ‘‘Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Bụt, Thế Tôn”. (Trong quyển Nhật Tụng Thiền Môn năm 2000, quý vị sẽ thấy có bài “Xưng Tán Tam Bảo”, bên trái là tiếng Hán Việt và bên phải là tiếng Pali.)

Họ đọc mười danh hiệu của Đức Như Lai và họ hiểu được mười danh hiệu đó. Mỗi danh hiệu tượng trưng cho một đức tính, một năng lượng của Như Lai. Khi đọc lên các danh hiệu đó thì ta đã thấm được một ít năng lượng và thấy trong người có thêm vững chãi và thảnh thơi. Tiếng Pali: “Iti pi so Bhagavà: Araham, Sammà-sambuddho, Vijjà-carana-sampanno, Sugato, Lokavidu, Anuttaro purisà-damma-sàrathi, Satthadeva manussànam, Buddho, Bhagàvati”. Ngày xưa, người ta niệm Bụt như vậy để có sự vững chãi, thảnh thơi, an lạc. Người ta còn niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới… Vì thế, niệm Bụt là một pháp môn chính thống ở trong truyền thống Phật giáo ngay từ ban đầu. Theo nguyên tắc của pháp môn niệm Bụt thì trước hết hành giả phải nghĩ rằng Bụt là một thực tại ngoài mình. Ngài đang cư trú ở tu viện Kỳ Viên hay trên núi Thứu. Khi niệm Bụt như vậy, tự nhiên mình tiếp xúc được với sự thảnh thơi và vững chãi, với chất liệu Từ, Bi, Hỷ và Xả trong con người của mình. Khi ta bắt đầu thực tập niệm Bụt, thì Bụt là một thực tại ở ngoài, nhưng từ từ Bụt trở thành một thực tại vừa ở trong, vừa ở ngoài. Tại vì trong tâm thức của ta cũng có những hạt giống của vững chãi và thảnh thơi, của Từ, Bi, Hỷ, Xả, của Ứng Cúng, của Chánh Biến Tri, của Minh Hạnh Túc… như Bụt. Khi ta niệm Bụt như vậy, ta tiếp xúc được vừa với thực tại của Bụt ở ngoài và vừa với thực tại của Bụt ở trong tâm. Nếu ta giỏi thì ta nhận thức ra rất sớm rằng Bụt luôn luôn có mặt trong tâm ta. Nhờ đó nên khi Đức Thế Tôn qua đời, ta không còn than khóc nữa. Ta biết rằng Bụt luôn luôn ở trong ta. Ngài không bao giờ mất. Nguyên tắc chỉ đơn giản như vậy thôi.

Đối với người mới thực tập niệm Bụt thì Bụt là một thực tại ở bên ngoài ta. Nhưng nếu ta đã thực tập sâu sắc thì Bụt sẽ trở thành một thực tại trong tự tâm. Vì vậy, dù Bụt ở trong Tịnh Độ hay Bụt ở ngoài Tịnh Độ thì Ngài vẫn luôn có mặt trong tâm ta, và khi đó, tâm ta chính là Tịnh Độ. Các thầy sau này đã nói rằng Bụt A Di Đà có mặt trong tâm mình và Tịnh Độ cũng có mặt ngay ở trong tâm mình. Đó gọi là “Duy tâm Tịnh Độ”. Ý niệm Tịnh Độ là một thực tại ở ngoài, nằm về phương Tây chẳng qua chỉ là ý niệm ban đầu. Nếu thực tập giỏi thì ta sẽ thấy sâu hơn rằng Bụt A Di Đà và cõi Tịnh Độ không phải chỉ nằm ở phương Tây mà còn nằm ở trong tâm mình và ở cả mọi phương. Như vậy, cả người thực tập giỏi lẫn người thực tập chưa giỏi đều đạt tới kết quả, nhưng đối với người tu tập giỏi thì kết quả rất lớn, còn người tu tập chưa giỏi thì kết quả vừa vừa.

Ba nguồn năng lượng

Chúng ta đi tới cõi Tịnh Độ và thiết lập cõi Tịnh Độ bằng cách nào? Muốn đi tới cõi Tịnh Độ hay thiết lập cõi Tịnh Độ của Tăng thân, chúng ta phải hội đủ ba yếu tố hay ba nguồn năng lượng.

Nguồn năng lượng thứ nhất là niềm tin. Ta tin tưởng rằng khổ đau của ta có thể được chuyển hóa bằng những con đường thoát ly sinh tử. Tịnh Độ là một trong những con đường ấy. Niềm tin này hoàn toàn không phải là những ý niệm căn cứ trên những suy nghĩ vu vơ, mà được căn cứ trên nền tảng của lý trí và sự chiêm nghiệm của chính mình. Niềm tin đó gọi là chánh tín, chứ không phải là mê tín. Chúng ta đang ở trong một hoàn cảnh bi đát tuyệt vọng, nhiều hệ lụy và khổ đau, và cũng từ nơi chính ta, khởi dậy niềm tin và ý chí muốn thoát ly những hệ lụy khổ đau ấy. Do đó mà niềm tin Tịnh Độ bắt đầu có mặt ở nơi ta và ta bắt đầu đi tìm kiếm con đường xây dựng Tịnh Độ hay con đường xây dựng Tăng thân để nương náu, vui sống, tin tưởng và thực tập.

Nguồn năng lượng thứ hai là bản nguyện. Bất cứ một bậc đại nhân hay một vị cao tăng nào cũng đều có bản nguyện trong sự tu tập. Và do có bản nguyện, các Ngài mới thiết lập được một cõi Tịnh Độ hay một Tăng thân để cùng nhau nương tựa và tu tập.

Chư Bụt và Bồ Tát cũng vậy, vị nào cũng đều có đại nguyện muốn thiết lập một cõi Tịnh Độ hay một Tăng thân để tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự tu tập. Tăng thân cũng có khi còn gọi là Tịnh Độ. Đã là Tăng thân, thì dù Tăng thân lớn hay nhỏ cũng đều có những chất liệu như nhau. Đã là Tịnh Độ thì dù cõi Tịnh Độ lớn hay cõi Tịnh Độ nhỏ cũng đều phải có những chất liệu như nhau, đó là niềm tin, bản nguyện và sự thực tập.

Bản nguyện nào cũng được tạo ra từ hai chất liệu. Chất liệu thứ nhất là ‘‘buông bỏ’’. Buông bỏ hệ lụy khổ đau. Buông bỏ mọi sự vẩn đục trong đời sống. Và chất liệu thứ hai của bản nguyện là ‘‘hân thích’’. Hân thích là mong muốn đi tới sự an lạc, với hạnh phúc, với năm chất liệu thanh trong của Tịnh Độ.

Nguồn năng lượng thứ ba là sự thực hành. Thực hành Tịnh Độ tức là biến niềm tin và bản nguyện Tịnh Độ trở thành hiện thực trong đời sống hàng ngày, bằng cách niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, nghĩa là luôn luôn nuôi dưỡng chánh niệm trong từng giây từng phút, để các vọng tâm không có điều kiện sinh khởi. Mỗi khi thực hành đời sống Tịnh Độ, đạt tới nhất tâm bất loạn, thì Tịnh Độ hiện tiền. Bấy giờ dầu ta không cầu sinh Tịnh Độ mà Tịnh Độ vẫn hiện bày trong đời sống của ta. Tịnh Độ chỉ là sự chuyển hóa năm thuộc tính vẩn đục của Ta Bà thành năm chất thanh trong của Tịnh Độ. Mỗi ngày, trong ta, chất vẩn đục được gạn lọc bao nhiêu, thì chất liệu Tịnh Độ trong ta được lưu xuất bấy nhiêu. Do đó, mỗi tiếng niệm Bụt, mỗi tiếng niệm Pháp, mỗi tiếng niệm Tăng đều có công năng tạo ra nguồn năng lượng hóa giải những yếu tố vẩn đục trong ta, tháo gỡ những hệ lụy khổ đau trong ta, đưa ta đi tới với tự do, với hạnh phúc, với an lạc. Hay nói cách khác, mỗi tiếng niệm Bụt của ta là nguồn năng lượng đưa ta đi tới với Tịnh Độ và với Tăng thân. Bởi vậy, Tín, Nguyện và Hạnh là ba yếu tố căn bản để dựng nên Tịnh Độ, nơi nương náu cho ta và cho biết bao nhiêu kẻ khác.

SÁCH CÙNG TÁC GIẢ

Quyền Lực Đích Thực - Thích Nhất Hạnh

Xã hội chúng ta được xây dựng trên một khái niệm rất hạn hẹp về quyền lực, đó là giàu có, sung túc, thành công nghề nghiệp, danh tiếng, sức khỏe, sức mạnh quân sự và quyền năng chính trị. Tôi xin đề nghị với bạn một thứ quyền lực khác, một thứ quyền lực vượt bậc: quyền lực giúp ta thoát khỏi sự ám ảnh của mê đắm, sợ hãi, tuyệt vọng, sự trấn ngự của kỳ thị, sân hận, ngu dốt; quyền lực giúp ta đạt được hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Đây là một thứ quyền lực mà bất cứ ai sinh ra cũng đều có quyền hưởng, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, mạnh yếu. Xin mời bạn cùng tôi tìm hiểu thứ quyền lực đặc biệt này.

Giới thiệu

Tất cả chúng ta ai cũng muốn có quyền lực và thành công. Nhưng nếu vì cố sức tranh đấu để có được quyền lực, rồi lại cố sức tranh đấu bảo vệ quyền lực mà bị hao mòn, mệt mỏi, bị chia cách tình nghĩa thì đâu còn có thể vui hưởng quyền lực và thành công? Quyền lực và thành công như vậy thật chẳng có ý nghĩa gì. Sống một cuộc sống sâu sắc và hạnh phúc, có thì giờ chăm sóc người thương là một thành công khác, một quyền lực khác, một thứ thành công và quyền lực quan trọng hơn nhiều. Chỉ có một thành công đáng kể đó là thành công khi chuyển hóa tự thân, vượt thắng phiền não, sợ hãi và sân hận. Đây là thứ thành công, thứ quyền lực đem lợi lạc cho chính ta và cho những người khác mà không gây ra một tác hại nào.

Muốn có quyền lực, muốn được danh tiếng hay giàu sang không phải là điều xấu. Nhưng phải nhớ rằng chúng ta theo đuổi quyền lực, danh tiếng hay tiền tài là để được hạnh phúc. Nếu giàu có và quyền thế mà không hạnh phúc thì giàu có và quyền thế để làm gì?

Quyền lực chỉ có ích khi đem lại hạnh phúc cho ta và mọi người xung quanh. An lạc và hạnh phúc là điều quan trọng nhất trong cuộc đời, thế mà gần cả cuộc đời chúng ta chỉ biết đau khổ, chạy theo tham dục, mải miết đi tìm kiếm hạnh phúc nơi quá khứ hay trong tương lai mà quên đi mất những mầu nhiệm trong giây phút hiện tại.

Vẫn biết rằng mục đích tối hậu của doanh nghiệp là lợi nhuận, nhưng lợi nhuận ở đây phải có nghĩa là hưởng lợi lạc. Là một vị Bồ Tát, ta được hưởng rất nhiều lợi lạc. Nếu kiếm lợi nhuận mà đem lại an vui thì việc làm của ta không có gì là sai trái. Ta có thể vẫn kiếm lợi nhuận mà không tàn hại, mà phát huy công bằng xã hội, đem lại hiểu biết và giảm thiểu khổ đau. Muốn thế, phải ngưng chạy theo quyền hành, tiền tài, danh vọng và sắc dục. Bốn thứ ấy đi liền với nhau. Không thực tập chánh niệm, ta sẽ là nạn nhân của chúng.

Nhìn sâu, ta thấy rằng vẫn có cách tham dự vào thế giới kinh doanh đồng thời đem lại hạnh phúc cho ta và những người khác. Công việc của ta có ý nghĩa khi nó đem lại lợi lạc cho nhân loại và môi trường. Cũng là kiếm tiền nhưng kiếm tiền một cách có ý nghĩa, bởi vì nó đem lại an vui cho thế giới.

Tác giả:

Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh ngày 11 tháng 10 năm 1926) là một thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình người Việt Nam.

Ông sinh ra ở Thừa Thiên-Huế, miền Trung Việt Nam, xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi, trở thành một nhà sư vào năm 1949. Ông là người đưa ra khái niệm "Phật giáo dấn thân" (engaged Buddhism) trong cuốn sách Vietnam: Lotus in a Sea of Fire.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, trong số đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh. Ông là người vận động cho phong trào hòa bình, với các giải pháp không bạo lực cho các mâu thuẫn.

Sách Khai Minh trân trọng giới thiệu bạn đọc !

 
Nội dung tùy chỉnh viết ở đây
Chất lượng hàng đầu
Chất lượng hàng đầu

Cam kết tất cả sản phẩm chính hãng 100%

Giao hàng siêu nhanh
Giao hàng siêu nhanh

Chúng tôi cam kết giao hàng trong 24h

Mua hàng tiết kiệm
Mua hàng tiết kiệm

Giảm giá & khuyến mãi với ưu đãi cực lớn

Hỗ trợ online 24/7
Hỗ trợ online 24/7

Gọi ngay 0985.369.023 để được tư vấn

Gọi cho chúng tôi
Chat với chúng tôi qua Zalo
Xem địa chỉ doanh nghiệp